Lê thị Sương
Ông ngoại tôi là cụ Phan Châu Trinh, mất
lúc tôi chưa ra đời. Tôi không có diễm phúc trông thấy ông ngoại tôi
nhưng tôi thường nghe mẹ tôi, bà Phan thị Châu Liên, kể về ông ngoại
tôi:
Vì sớm mồ côi mẹ và cha thì bận việc
công nên đến năm 10 tuổi, ông ngoại tôi mới bắt đầu cắp sách đến trường.
Tuy nhiên, chỉ có vài ba năm sau, ông ngoại tôi đã phải bỏ dở việc học
chữ vì không ưa lối học từ chương trích cú và chú tâm vào việc học võ.
Kế đến, cha là ông Phan văn Bình bị nghĩa quân Cần Vương giết lầm nên
cửa nhà trở nên sa sút.
Sau đó, nhờ người anh cả là ông Phan văn
Cừ đỡ đầu và nuôi cho ăn học tiếp. Với tư chất thông minh và hiếu học,
ông ngoại tôi đã thi đậu Cử nhân rồi Phó bảng và được bổ làm Thừa biện
bộ Lễ trong triều đình nhà Nguyễn. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian
ngắn, ông ngoại tôi đã nhận thấy sự thối nát của quan lại Nam triều và
chính sách hà khắc của thực dân Pháp nên cương quyết từ quan và dấn thân
vào con đường hoạt động cách mạng cứu dân, cứu nước, công khai chống
bọn quan lại tay sai Nam triều và chính quyền thực dân. Ông ngoại tôi
rất hiên ngang, khẳng khái và thẳng thắn chống đối mọi bất bình đẳng cá
nhân và tiến tới chống mọi bất công xã hội.
Khác với các nhà cách mạng cùng thời,
ông ngoại tôi quan niệm là dân trí nước ta còn thấp, chưa đủ thực lực để
lật đổ ách thống trị của một chính quyền dùng sức mạnh bằng súng đạn và
lưỡi lê, nếu bạo động thì chỉ gây đổ máu vô ích. Ông muốn dựa vào Pháp
để đánh đổ chế độ quân chủ chuyên chế mà xây dựng nền dân quyền. Ông
ngoại tôi cùng với các ông Trần quý Cáp và Huỳnh thúc Kháng khởi xướng
phong trào duy tân với phương châm hành động là “Khai dân trí, chấn dân
khí, hậu dân sinh”. Nhiều sĩ phu yêu nước từ Nam chí Bắc đã hưởng ứng
phong trào này. Ông cho dân trí là quyết định hàng đầu. Dân trí có mở
mang và toàn dân có một tri thức mới thì sẽ làm được mọi việc lớn lao
cho đất nước. Ông viết báo và đi diễn thuyết ở nhiều nơi để cổ động tân
học và truyền bá tư tưởng thực học nhằm phục vụ xã hội. Ông hô hào mở
trường dạy chữ quốc ngữ, khuyến khích nhân dân học hỏi về mọi lĩnh vực,
đón nhận các nền văn hóa tân tiến để góp phần phát triển đất nước. Từ sự
mở mang tri thức, người dân sẽ tự ý thức về quyền lợi và trách nhiệm
của mình. Hàng trăm ngôi trường dạy chữ quốc ngữ mọc lên ở khắp các làng
xóm trong tỉnh Quảng Nam do những người hưởng ứng phong trào duy tân
đứng ra tổ chức. Đặc biệt ở làng Phú Lâm có ông lý trưởng Lê Cơ là anh
em cô cậu ruột với ông ngoại tôi, đứng ra cải tổ việc làng, mở trường
học, rước thầy về dạy chữ quốc ngữ cho trẻ nhỏ trong làng và lập trường
nữ học đầu tiên ở Quảng Nam. Ông ngoại tôi ra Bắc gặp các nhân sĩ Lương
văn Can, Nguyễn Quyền ... cùng thành lập trường Đông kinh nghĩa thục ở
Hà Nội, vào Nam mở trường Dục Thanh ở Phan Thiết. Chương trình học mới
mẻ gồm có văn chương, toán học, khoa học tự nhiên, kinh tế học, xã hội
học, tiếng Pháp, tiếng Nhật, quân sự đi đôi với nếp sống mới như cắt tóc
ngắn, mặc đồ tây gọn gàng, đưa chữ quốc ngữ vào sử dụng v.v... Về dân
sinh, ông ngoại tôi chủ trương dạy dân cách buôn bán, mở các hội buôn,
làm tiểu thủ công, lập nông hội v.v... theo kiểu Tây phương. Lúc bấy
giờ, phong trào duy tân lập được 3 thương hội ở Hội An, Phong Thử và Phú
Lâm cùng 3 nông hội lớn ở Yến Nê, Mỹ Sơn và Bửu Sơn. Cùng với việc lập
trường Dục Thanh, một công ty thương nghiệp có tên là Liên Thành ở Phan
Thiết cũng được thành lập để lấy lời nuôi học sinh ăn học.
Phong trào học tập này đã lan rộng khắp
nơi và nâng cao ý thức nhân dân nên đã dấy lên sức mạnh đấu tranh làm
bùng nổ cuộc dân biến ở Quảng Nam rồi lan rộng khắp Trung kỳ trong năm
1908. Mặc dù nhân dân tự nổi dậy đi biểu tình chống đi phu và sưu thuế,
không có sự lãnh đạo trực tiếp của những người đứng đầu phong trào duy
tân và lúc đó, ông ngoại tôi đang ở Hà Nội mà bọn mật thám Pháp vẫn bắt
giải về Huế và bị bọn tay sai Nam triều kết tội “mưu làm giặc mà chưa
làm, xử tử, đày Côn Lôn, gặp ân xá cũng không tha” rồi đày ông ngoại tôi
cùng các đồng chí ra Côn đảo.
Trong thời gian ông ngoại tôi bị lưu đày
ở đảo Côn Lôn, nhờ Hội Nhân quyền và Dân quyền ở Paris đấu tranh và can
thiệp mạnh mẽ với chính quyền Pháp nên đến cuối năm 1911, ông ngoại tôi
được trả tự do. Nhưng trên thực tế, sau khi ra khỏi Côn Lôn, ông ngoại
tôi bị an trí ở Mỹ Tho dưới sự kiểm soát chặt chẽ của tên Tỉnh trưởng
người Pháp. Do đó, ông ngoại tôi cực lực phản đối bằng cách viết thư
gởi chính phủ Pháp yêu cầu hoặc trả ông lại Côn Lôn hoặc để ông tự do
sang Pháp. Thực dân Pháp thấy đây là cơ hội tốt để “đày khéo” ông ngoại
tôi nên họ bằng lòng cho ông ngoại tôi xuất ngoại với cậu cả của tôi là
ông Phan Châu Dật. Cậu cả của tôi được theo học tại một trường Trung học
Pháp, đậu bằng Tú Tài thì bị bệnh lao không chữa khỏi nên phải trở về
nước và mất năm 1921.
Ông ngoại tôi tin tưởng ở Pháp có một
lực lượng tiến bộ, có thể vận động để tạo sức ép cho cải cách ở Đông
Dương và cấp bách là trực tiếp vận động giải thoát các nhà lãnh đạo
phong trào yêu nước đang bị giam cầm.
Trong thời gian ở Pháp, ông ngoại tôi
không ngừng đi diễn thuyết và viết sách báo tranh đấu cho quyền tự quyết
của dân tộc Việt Nam, tố cáo những sự tham ô, nhũng lạm của quan lại
Nam triều và sự hà hiếp, đàn áp, bóc lột của thực dân Pháp làm cho nhân
dân ta bần cùng, khốn khổ.
Ông ngoại tôi còn gởi thư kể tội vua
Khải Định khi ông vua này qua Pháp dự đấu xảo. Ông còn gia nhập Hội Nhân
Quyền Pháp, tiếp xúc với các kiều bào làm ăn ở Pháp và mọi thành phần
xã hội khác, kể cả việc làm quen với các sĩ quan Pháp cùng các quan chức
cao cấp trong Bộ Thuộc Địa để dễ bề hoạt động hợp pháp. Chính vì những
điều này mà ông ngoại tôi bị các nhà chính trị đương thời, kể cả các ông
Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh là các đồng chí cùng hoạt động ở
Pháp, đều chỉ trích ông ngoại tôi là thỏa hiệp với thực dân Pháp và chủ
trương “Pháp Việt đề huề”. Thật ra, đây chỉ là một chiến thuật cách mạng
“ỷ Pháp cầu tiến bộ” chứ trước sau gì, ông ngoại tôi cũng là người tận
trung với nước, công khai tranh đấu ôn hòa nhưng quyết liệt trong khuôn
khổ hợp pháp để chống lại chế độ quân chủ, xây dựng chế độ dân chủ và
giành lại độc lập cho nước nhà. Tuy tin tưởng vào lý tưởng “Tự Do, Bình
Đẳng, Bác Ái” của một số người có tinh thần xã hội trong chính giới
Pháp, ông ngoại tôi cũng thấy họ vẫn đặt quyền lợi của họ lên trên hết
chứ đâu có nghĩ đến sự sống còn của dân tộc Việt Nam chúng ta. Như thế,
không thể có sự thỏa hiệp với Pháp để gây thiệt hại cho dân tộc ta.
Ông ngoại tôi không chấp nhận phương
thức cải cách trong một xã hội phong kiến cũ mà phải đưa người dân lên
địa vị làm chủ, cai quản đất nước. Muốn được vậy thì phải bất bạo động,
dựa vào Pháp để cầu tiến và khéo léo tỏ ra khoan hòa hầu tranh thủ được
thiện cảm của những người trong giới cầm quyền Pháp.
Về điểm này cũng có sự bất đồng giữa nhà
cách mạng Phan Bội Châu vẫn còn chí hướng tôn quân với ông ngoại tôi là
người đầu tiên đề xướng thuyết dân quyền. Không riêng gì cụ Phan Bội
Châu mà một số sĩ phu chủ trương đấu tranh bằng vũ lực cũng bất đồng ý
kiến với ông ngoại tôi.
Khi chiến tranh Pháp Đức bùng nổ, bọn
thực dân Pháp vu cáo ông ngoại tôi làm gián điệp để bắt giam trong nhà
lao Santé và cũng nhờ sự can thiệp của Hội Nhân Quyền Pháp mà ông ngoại
tôi được tha sau gần 10 tháng giam cầm.
Ngoài việc đi diễn thuyết, ông ngoại tôi
còn làm thơ, viết văn rất nhiều mà các di cảo được cha mẹ tôi lưu giữ
cho đến ngày nay. Các tác phẩm của ông gồm có: Đầu Pháp chính phủ thư,
Tỉnh quốc hồn ca, Tuồng Trưng Nữ Vương bình ngũ lãnh, Đại Việt sử ký
toàn thư, Pháp Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam, Đông Dương chính trị
luận, Trung kỳ dân biến thỉ mạt ký, Giai nhân kỳ ngộ diễn ca, Tây Hồ và
Santé thi tập v.v...
Suốt trong thời gian làm quan cũng như
hoạt động cách mạng, ông ngoại tôi thường vắng nhà nên bà ngoại tôi phải
quán xuyến việc nhà cũng như việc đồng áng và lo nuôi dạy hai con thơ
là mẹ tôi và dì Phan thị Châu Lan. Ở quê nhà, bà ngoại tôi sống vất vả
và thiếu thốn nên mất sớm vào năm 34 tuổi (1914), không gặp được ông
ngoại tôi và cậu cả một lần cuối. Từ lúc đó, mẹ và dì của tôi phải nương
náu nơi một người cô họ là bà Lê thị Vinh ở làng Phú Lâm thuộc huyện
Tiên Phước tỉnh Quảng Nam.
Sau 14 năm sống ở Pháp, ông ngoại tôi
quyết định xin về nước để tiếp tục hoạt động theo đường hướng riêng của
mình hòng thức tỉnh dân khí cả nước đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền
áp chế. Nhưng rủi thay, chẳng bao lâu, ông ngoại tôi lâm trọng bệnh và
phải tá túc tại nhà cụ Nguyễn An Cư là chú ruột của ông Nguyễn An Ninh ở
Hóc Môn cho đến khi trút hơi thở cuối cùng vào ngày 24 tháng 3 năm
1926, thọ 54 tuổi. Trong thời gian này, cha mẹ tôi và dì dượng tôi đều
vào thăm nom, săn sóc rồi dự tang lễ của ông ngoại tôi.
Mẹ tôi kể lại rằng đám tang ông ngoại
tôi lớn lắm: linh cửu được quàn tại một khách sạn ở Sài Gòn trong 8 ngày
đêm, có nhiều nhân vật danh tiếng và đại diện các giới đồng bào đến
phúng điếu và đọc điếu văn, hàng vạn đồng bào khắp cả nước bãi khóa,
đình công, bãi thị để phục tang và tiễn đưa ông ngoại tôi đến nơi an
nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang Gò Công Tương Tế gần sân bay Tân Sơn
Nhất. Điều đặc biệt là đoàn người tiễn đưa dài hàng mấy cây số theo sau
quan tài đã trương những câu liễn đối điếu tang và biểu ngữ như đi biểu
tình tuần hành để tỏ lòng kính trọng và tiếc thương một chí sĩ cách mạng
yêu nước nhưng bọn thực dân Pháp vẫn để yên chứ không ngăn cản hoặc
khủng bố theo kiểu của các chính quyền độc tài gian ác. Thực dân Pháp đã
khôn khéo không cấm đoán gì trong đám tang để tránh dư luận phê phán
nhưng sau tang lễ, chúng mới ra lệnh đuổi học, đuổi việc hoặc bắt bớ
những người đi đưa đám tang.
Có một điều còn trong vòng bí ẩn là hành
lý của ông ngoai tôi mang về nước lúc đó bị xét rất kỹ nhưng không biết
ai đã cất giấu và chuyển tải về giùm các tư liệu quý báu gồm cả các bản
thảo.
Chính do những hoạt động kể trên mà ông
ngoại tôi đã được chính giới Pháp đánh giá là một lãnh tụ chính trị xuất
chúng, một trí thức cao cấp tiêu biểu cho văn hóa phương Đông. Hơn nữa,
ông đã đưa ra một học thuyết mới, không cực đoan, tránh đổ máu, giúp họ
dung hòa được quyền lợi của Pháp ở Đông Dương và lý tưởng tự do bác ái
của cách mạng Pháp.
Cuộc cách mạng dân quyền bất bạo động do
ông ngoại tôi khởi xướng còn dở dang vì ông ngoại tôi mất quá sớm và
phong trào duy tân bị dập tắt. Do những éo le của thời cuộc, lịch sử đã
không đi theo con đường mà ông đã sáng suốt lựa chọn, các thế hệ sau này
đã phải dùng bạo lực cách mạng để giành độc lập nên đã hy sinh quá
nhiều thời gian và xương máu.
Con đường đi tìm tự do và dân chủ cho
dân tộc Việt Nam thật là cam go và cho đến nay, vẫn còn cứ tiếp diễn
không biết đến bao giờ!
No comments:
Post a Comment